PHÒNG NGỪA LOÃNG XƯƠNG
Đó là lời khuyên của các bác sĩ tại hội thảo “Triển khai hoạt động bác sĩ gia đình và cập nhật kiến thức trong thực hành y học gia đình” do Trường đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM tổ chức ngày 5-3. Báo cáo “Cập nhật chẩn đoán và điều trị loãng xương” của PGS.TS.BS Lê Anh Thư - chủ tịch Hội Loãng xương TP.HCM - cho biết ước tính ở VN mỗi năm có khoảng 2,8 triệu người bị loãng xương (nữ chiếm 76%); mỗi năm có 170.000 trường hợp gãy xương đo loãng xương.
Thử nghiệm (đo) mật độ xương quyết định nếu có loãng xương - một căn bệnh làm cho xương trở nên mỏng manh hơn và nhiều khả năng vỡ. Trong quá khứ, loãng xương có thể được phát hiện chỉ sau khi đã phá vỡ xương. Vào thời điểm đó, tuy nhiên, xương có thể khá yếu. Thử nghiệm mật độ xương có thể cho biết nguy cơ phá vỡ xương trước khi thực tế.Thử nghiệm mật độ xương sử dụng X-quang để đo lường bao nhiêu gam canxi và khoáng chất xương được đóng gói vào một phân đoạn của xương. Các xương được thử nghiệm phổ biến nhất ở hông, cột sống và cẳng tay.
Gãy xương do loãng xương
Loãng xương là một rối loạn chuyển hóa của bộ xương làm tổn thương sức mạnh của xương, đưa đến tăng nguy cơ gãy xương. Loãng xương rất thường gặp nhưng diễn biến âm thầm, không có triệu chứng đặc hiệu. Khi bệnh nhân có triệu chứng thì thường đã bị giảm 30% khối xương. Đáng lưu ý, số trường hợp gãy cổ xương đùi do loãng xương đang gia tăng rất nhanh, đặc biệt ở các nước châu Á.
Nguyên nhân gia tăng người bị loãng xương và gãy xương do loãng xương tại VN là do tuổi thọ trung bình của người dân gia tăng. Loãng xương còn gây ra nhiều hậu quả nặng nề cho người bệnh như bệnh nhân bị đau lưng cấp và mãn tính; gù lưng, giảm chiều cao; mất ngủ, trầm cảm; khó thở, khó tiêu, đau ngực; gãy xương, phải nhập viện điều trị; giảm chất lượng cuộc sống... việc điều trị loãng xương rất cần thiết và quan trọng, giúp giảm nguy cơ gãy xương, nâng cao chất lượng sống, giảm nguy cơ tử vong cho người bệnh. Song điều trị loãng xương cần liên tục, kéo dài và tốn kém.
Các biện pháp phòng ngừa
Về dinh dưỡng, cung cấp đủ các chất dinh dưỡng tham gia vào cấu trúc và chuyển hóa của xương theo nhu cầu từng giai đoạn phát triển là canxi, vitamin D, vitamin K, phosphor, chất đạm...; giáo dục trẻ cách ăn uống khỏe mạnh cho xương; không để suy dinh dưỡng hoặc béo phì; hạn chế các thói quen dinh dưỡng có ảnh hưởng đến xương là hút thuốc lá, uống rượu, ăn mặn, ăn nhiều chất đạm từ thịt đỏ, giảm uống cà phê... Phụ nữ sau tuổi trung niên nên ăn nhiều thực phẩm giàu isoflavon (một dạng phyto-estrogen tự nhiên) có nhiều trong đậu nành và sản phẩm làm từ đậu nành như đậu hũ, tàu hũ ky. Về vận động, tăng thời gian hoạt động thể lực cho trẻ em tại gia đình và trong trường học; gia tăng hoạt động trong cuộc sống hằng ngày như đi bộ, đi cầu thang bộ, mang xách vừa phải. Ngoài ra, nên kiểm tra sức khỏe xương định kì hằng năm; bổ sung thêm canxi, vitamin D...
Sự hình thành và phát triển của xương trải qua nhiều giai đoạn. Ở trẻ em cho đến tuổi dậy thì, quá trình tạo xương thường mạnh hơn quá trình hủy xương. Khi bước vào thời gian cuối của giai đoạn trưởng thành (25-30 tuổi), quá trình tạo xương thường chậm lại, duy trì ở mức tương đương với quá trình hủy xương. Sau tuổi trưởng thành (qua 30 tuổi), sự mất xương bắt đầu diễn ra do tốc độ của quá trình hủy xương cao hơn quá trình tạo xương. Bệnh loãng xương thường bắt đầu được chú ý hoặc được phát hiện khi biến chứng gãy xương xảy ra ở độ tuổi trung niên (sau 40 tuổi), khi chênh lệch của hai quá trình tạo và hủy xương trong chu chuyển xương đã ở mức rất lớn hằng ngày, đồng thời lượng xương dự trữ đã giảm đến mức không thể bảo đảm chức năng của xương nữa... Do vậy, việc phòng loãng xương phải thực hiện từ trước tuổi trưởng thành. Vì khi đã bị loãng xương, việc điều trị không thể khôi phục được mật độ xương trước đó, chi phí điều trị thường rất cao và chất lượng sống của bệnh nhân bị suy kém rất nhiều.
Đặc biệt, vận động và tập luyện giúp gia tăng mật độ xương, giảm tỉ lệ loãng xương ở độ tuổi sau trung niên và giảm nguy cơ gãy xương. Khi tập luyện với các môn thể thao từ mức độ nhẹ đến trung bình như chạy bộ, leo dốc, tennis... các khối cơ co kéo tạo các lực tác động theo các chiều khác nhau lên xương. Sự kích thích mô xương này dẫn đến việc gia tăng sự tạo xương nên làm tăng mật độ xương. Các vận động thông thường như mang, vác, xách, đi bộ... có tác động lên vùng thắt lưng, đùi, hông... làm xương ở các vùng này khỏe hơn. Tập luyện các môn thể dục cường độ nhẹ cũng là cách tốt để có thời gian tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, tức là tăng nguồn cung cấp vitamin D cho cơ thể.
Tầm soát bệnh loãng xương
TẦM SOÁT LOÃNG XƯƠNG GIAI ĐOẠN SỚM TẠI PHÒNG KHÁM QUÁCH LONG VỸ ĐO LOÃNG XƯƠNG TOÀN THÂN hiện nay là phương pháp tốt nhất để phòng tránh bệnh loãng xương. LÀ TIÊU CHUẨN VÀNG CHẨN ĐOÁN LOÃNG XƯƠNG theo Tổ chức Y tế Thế Giới